Admin Admin
Tổng số bài gửi : 713 Join date : 23/10/2010 Age : 27 Đến từ : Cần Thơ
| Tiêu đề: Nguồn gốc môn võ Karate Tue Jun 28, 2011 2:13 pm | |
| | | | | | | | | Karate biểu hiện hình ảnh của một người tự vệ mà không mang vũ khí. Đó cũng là những hình ảnh của những tráng sĩ Hy Lạp từ những năm trước công nguyên khi tham gia các cuộc chiến mà không sử dụng vũ khí. Bắt đầu từ những vùng viễn Đông, người ta nhận thấy các chiến binh được tổ chức và huấn luyện kỹ thuạt chiến đấu một cách bài bản.
Trải qua một thời gian dài, kỹ thuật trong các động tác của Karate đàn dần được khai triển và trở thành hệ thống. Một số lời đồn đại về lai lịch của bộ môn này còn là điều bí ẩn. Tuy nhiên theo quan điểm truyền thống vốn được đa số các chuyên gia võ thuật thừa nhận, Karate có nguồn gốc từ Ấn Độ truyền sang Trung Quốc đến Okinawa, Nhật Bản, cuối cùng là Triều Tiên.
Một vị tu hành thuộc dòng Thiền, tên là Daruma (pháp danh Bhodidarma) đã đưa môn võ này vào trong khi đi truyền giáo tại Trung Quốc. Vào thời đó, thông thường các nhà tu hành đều biết võ nghệ để tự vệ trước sự tấn công của thú dữ và kẻ cướp. Kể cả Gautama Sidartha cũng từng là chiến binh trước khi ông trở thành Đức Phật. Khi sáng lập nên Phật giáo, ông cũng nhận thấy rằng không hề có sự mâu thuẫn nào khi một người hiền lành và giàu lòng vị tha cũng rất giỏi trong chiến đấu.
Vào khoảng năm 520 sau công nguyên, Bhodidarma đến cung điện của Hoàng đế Wu tại Chein-K’ang Trung Quốc và được đón tiếp nồng hậu. Sau đó, ông rời cung điện, theo hướng Bắc đi đến tỉnh Henan và sống ẩn dật trong chùa Thiếu Lâm (theo tiếng Nhật là Shorin) để dạy Thiền. Ông cũng dạy Shorin Kempo – nghệ thuật chiến đấu bằng tay không.
Các nghệ thuật chiến đấu Trung Hoa đã được ghi chép lại từ 3000 năm trước công nguyên. Bhodidarma được coi là người sáng lập môn phái Kempo Trung Hoa, chủ yếu là do ông bổ sung thêm các bài tập luyện ý của Yoga và Thiền, khiến cho môn này trở nên hoàn thiện hơn, giống như ngày nay chúng ta biết đến. Thiền được gắn liền với Karate và tất cả các võ sư Karate đều luyện tập Thiền để tư tưởng được thông suốt hơn. Trong thực tế, những bước phát triển lớn của Shorin Kempo đều do công của các vị sư qua nhiều năm khổ luyện và nghiên cứu. Cuối cùng, bằng vào những kiến thức về y học, các nhà sư đã khám phá ra các huyệt trọng yếu trên cơ thể con người, không những có thể dùng để chữa bệnh, mà còn dùng làm mục tiêu cho các đòn đánh Kempo đạt hiệu quả cao nhất.
Từ Trung Hoa, Kempo được lan truyền lên phía Bắc đến Mông Cổ, sang phía Đông đến Hàn Quốc, và phía Đông Nam đến đảo Okinawa. Cuối cùng, nó được lan truyền sang Nhật Bản – tại đây, nó trở nên vô cùng nổi tiếng sau kỷ nguyên Kamakura (khoảng năm 1200 sau công nguyên). Các chiến binh, các Samurai đã tiếp nhận môn võ này một cách đặc biệt cả dưới hình thức các đòn thế chiến đấu cũng như triết lý Thiền của nó. Triết lý thần bí của Thiền Phật giáo rất hấp dẫn đối với sự nhạy cảm của họ, nhưng điều lôi cuốn nhất vẫn là những nguyên tắc đã đem đến cho họ sức chịu đựng và nghệ thuật chiến đấu tuyệt vời, thông qua việc trang bị cho họ những kỹ năng tâm lý đặc biệt và sự thấu hiểu về bản thân cũng như đối thủ.
Từ năm 1372 vua Satto của Okinawa kết giao với triều đại nhà Minh của Trung Hoa, theo đó nhiều người Okinawa bắt đàu vào đất Trung Nguyên học võ và truyền lại cho các đệ tử ở quê nhà. Ngược lại, lúc này các thế võ Trung Hoa cũng phối hợp với Okinawa để cho ra đời môn võ Karate.
Năm 1429,vua Sho Hashi hoàn tất việc thống nhất các lãnh địa Okinawa. Trong 1 cố gắng nhằm ngăn chặn bất kì 1 mưu toan nổi loạn nào và củng cố trung ương tập quyền, vua Sho Hashi đã cấm nhân dân mang vũ khí trừ quân cận vệ triều đình. Những biện pháp này đã buộc nông dân phải dùng đến 1 thứ gì đó thay cho vũ khí, đó là ý chí sắt đá và những tấm áo giáp làm bằng cơ bắp được dày công tập luyện. Cách truyền thống của Kempo, như là những phương tiện đấu tranh duy nhất chông lại những kẻ áp bức được truyền từ đời nọ sang đời khác ở Okinawa.
Năm 1606, hơn 3000 Samurai đánh chiếm Okinawa và lãnh thổ này bị đặt dưới sự bảo hộ của đế quốc Nhật. Dân chúng trên đảo chịu rất nhiều khổ sở, hà khắc. Đến năm 1609, thị tộc Satsumakieemr soát Okinawa và đã cấm sử dụng karate để tiện việc cai trị dân chúng. Một chiến dịch “săn lùng gươm” đã được tiến hành ở Okinawa. Nông dân, thị dân và cả sư sãi cũng có thể bị hành hình về tội tàng trữ vũ khí dù chỉ là 1 lưỡi dao. Việc này đã dấy lên phong trào ngấm ngầm chống đối chính quyền Nhật. từ khi có lệnh tịch thu các loại binh khí, người Okinawa bắt đầu sử dụng các thế võ của mình phối hợp với các nông cụ như liềm, chày vồ… cùng thời gian này, xu hướng tấn công và tự vệ bằng tay cũng phát triển.
Môn Kempo lúc bấy giờ được gọi 1 cách đơn giản là Okinawa-Té (té trong tiếng Nhật có nghĩa là Tay), nghĩa là môn võ chiến đấu bằng tay Okinawa hoặc “ToTe”(bàn tay thần diệu). Có nhiều hệ phái của Okinawa-Té được đặt tên theo thành phố nơi phát sinh: Naha-té, Shuri-té, Tômari-té. Mỗi môn phái đều có điểm đặc thù riêng biệt. Môn phái Naha-té trải qua thời kỳ khoa khăn và trở thành Shorei, trong khi đó Shuri-té và Tômari-té trở thành Shorin. Môn Karate mà chúng ta biết ngày naychinhs là hậu duệ của thời kỳ phát triển võ thuật Shorei và Shorin bắt đầu khoảng năm 1700.
Những hệ phái Kempo sinh họat trong bí mật. Tất cả các môn sinh phải trích huyết thề bảo vệ bí mật. Kẻ phản bội sẽ bị bắt cóc, sau đó được đưa lên thuyền đi ra biển. Bị cào sướt da để hấp dẫn cá mập bằng mùi máu, sau đó bị ném ngay xuống nước. Không có tên tuổi nào của võ sư hay võ đương được lưu truyền. Chúng ta chỉ có thể đoán biết được các nông dân đã cầu cứu sụ trợ giúp của kiều dân Trung hoa, gửi người đến Trung Quốc để học hỏi kinh nghiệm chiến đấu.
Samurai là những quân nhân được huấn luyện tốt và trong khi đánh lại, người dân ít có cơ may thắng. Nhưng họ đã phải chiếm cho được cái cơ may đó bằng bất cứ giá nào. Điều này được thể hiện bằng khẩu hiệu “Hạ thủ bằng chỉ 1 đòn đánh”. Ngay trong cả những lần tỉ thí có tính chất thể thao cũng thường chấm dứt bằng cái chết của 1 trong 2 võ sĩ. Những năm tháng tập luyện không ngừng đã biến tay chân và những bộ phận khác của cơ thể thành 1 thú vũ khí có sức huỷ diệt rất lớn. Các võ sư tập luyện hàng nhiều giờ mỗi ngày hàng nhiều năm tháng trong bất cứ điều kiện thời tiết nào, thành từng nhóm hay 1 mình. Để làm cho tay chai cứng như thép họ kéo từng gàu nước 1 từ giếng lên bằng cách quay tời mà không dùng đến tay cầm hay túm 1 chiếc hũ đựng đất cát nên và dốc ngược xuống, dần dần tăng sức chứa bên trong. Hàng nhiều giờ không hè nghỉ các võ sư cứ đá trên bàn tay duỗi thẳng, chạy quanh bằng tư thế ngồi xổm hoặc nhảy từng bước lên dốc núi, mọi cơ bắp và xương được luyện tập đúng phương pháp dần dần trở nên trai cứng. Họ thoạt tiên sử dụng các kĩ thuật của Trung Quốc và Triều Tiên dù đã bổ sung nhiều phương pháp mới.
Thí dụ trong khi tập cho trai cứng các ngon tay, võ sinh phải xỉa vào thùng đậu, đông tác này được lặp đi lặp lại hàng nghìn lần cho đén khi máu ở các ngón tay chảy ra. Bài tập phải được thục hiện tiếp và phải cố quên cảm giác đau để đạt được đếc mức các đầu ngón tay sẽ mất hết cảm giác đau và trở thành những chiếc sừng cứng. Đồng thời lực xải phải được gia tăng để các ngón tay phải chạm được tới đáy. Sau đó được thay bằng cát, sỏi, chì nhỏ.
Thuật ngữ đầu tiên ciuar bộ môn này xuất hiện từ giữa thập niên 1700. Trong đó nổi tiếng là các vị thầy như Takahara Peichin, Kushanku và Sahugawa Tode đã làm trưởng môn và huấn luyện, truyền lại các thế võ cho thế hệ sau.
Triều đại Satsuma kết thúc vào năm 1872, và môn võ Karate phát triển trong dáng vẻ kín đáo sẵn có của nó. Tuy nhiên, vào năm 1902, công chúng đã biết đến nó nhiều hơn khi võ sư Ankoh Itosu bắt đầu phổ biến Karate như một phần của chương trình giáo dục và được nhieuf giới chức ủng hộ. Sau đó Karate bắt đầu được ứng dụng vào quân đội Nhật và trở thành phổ biến.
Võ sư Gichin Funakoshi đã mang những khái niệm cơ bản của Karate từ đảo Okinawa về Nhật để truyền bá vào năm 1916, số người yêu thích môn võ này đã gia tăng nhanh chóng. Tuy nhiên cách đây chỉ 100 năm bản thân dân Nhật có 1 khái niệm rất mơ hồ về môn võ bí truyền gọi là Kempo. Nghệ thuật chiến đấu bằng tay không của người dân Nhật được truyền từ đảo Okinawa, hòn đảo lớn nhất của quần đảo RyuKyu, nằm ở ngã tư trục đường buôn bán cổ xưa. Được sản sinh từ nhiều nguồn gốc khác nhau, ngày nay, có rất nhiều lò huấn luyện võ Karate, mỗi lò võ như vậy đều có những ưu điểm cũng như những khuyết điểm riêng. Từ Karate, hiểu theo nghĩa đen là “tay không” (kara theo tiếng Nhật nghĩa là không).
Trải qua thời gian, nhiều đồ đệ đã thành công dưới sự hướng dẫn của các võ sư người Okinawa, đồng thời họ cũng tạo ra môn phái cho riêng mình, thậm chí có phần vượt trội hơn những người đi trước. Kết quả là ở Nhật có khá nhiều môn phái Karate.
Giang Lê | | | | |
| | | | |
Nguồn gốc bài viết : http://www.benxua.net/t300-topic#ixzz1TEgxzkglLink gốc : www.benxua.net |
|